Việt Nam có lẽ là một trong những quốc gia có nhiều xe gắn máy nhất! Tuy nhiên “kỷ lục” này lại đang là vấn đề nhức nhối nhất cho toàn xã hội. Từ những số liệu thống kê, hiện nay, Việt Nam có khoảng 30 triệu chiếc xe máy với số tiền chi ra gần 30 tỉ đôla. Con số khổng lồ này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng kẹt xe và giao thông quá tải ở các thành phố. Nguồn chi thiếu quản lý này có người còn gọi là sự “bố thí” cho các tập đoàn môtô vốn dĩ bị ứ đọng ở đất nước họ.
Cũng theo thống kê của nhiều trang mạng, số người chết và bị thương khi tham gia giao thông ở Việt Nam lên tới 3000 người mỗi tháng, 4 vạn người trong một năm. Con số này vượt xa số người chết trong các cuộc đánh bom khủng bố hàng năm ở Irắc. Thậm chí nó còn sánh ngang với các nạn nhân của một trận động đất cỡ lớn trên thế giới với tần suất mỗi năm một lần. Nếu đem so sánh với những cuộc chiến tranh trước đây ở Việt nam, con số này cũng bỏ xa về mức độ tang thương. Trong 21 năm chiến tranh (1945-1975) số binh lính miền Nam chết và mất tích là 250000, trong khi đó tại nạn giao thông ước tính khoảng 257500 người chết, chưa tính người bị thương. Một con số kinh hoàng mà ít người biết tới.
Nếu chúng ta lấy giá trị trung bình thì mỗi năm có khoảng gần 12000 người thiệt mạng vì tai nạn giao thông. Điều đó hoàn toàn phù hợp với con số thông kê hàng năm của bộ giao thông vận tải trong những năm gần đây: năm 2005 có 11180 người chết; năm 2006 là 12264 người; năm 13200 người; năm 2008 là 11318 người; năm 2009 là 11516 người.
Giải thích về nguyên nhân của những “chiến tích” khủng khiếp này, người ta mổ xẻ đủ mọi vấn đề: nào là ý thức người dân, nào là đường sá còn chưa đủ lớn, nào là ngã tư tồn tại quá nhiều, nào là cảnh sát còn quá nhẹ tay… Theo giới khoa học thì những lý do ấy không thể phủ nhận, tuy nhiên, cái căn nguyên là ở chỗ Việt Nam không có tính toán, quy hoạch không có chiều sâu. Thậm chí khi tác giả Nguyễn Hoàng trình bày về ứng dụng thuyết chuyển động Brown, để giải thích cho một thực trạng yếu kém về quản lý phương tiện giao thông ở Việt Nam, thì nhiều người lại đặt ngược lại câu hỏi “liệu những người có trách nhiệm có thể hiểu được điều này?”. Một câu hỏi xem ra “đau đớn”, nhưng nó lại hoàn toàn có lý do.
Một vấn đề nổi cộm khác đang làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực là dự án “Tàu Cao Tốc Bắc-Nam”(TGV). Cho đến bây giờ khi dự án đã bị tạm ngưng bởi những bất cập và thiếu cơ sở, nhưng các nhà phân tích vẫn còn bàn luận, các bài viết tham luận vẫn còn “rôm rã” trên các diễn đàn. Có lẽ không một ai lại không thầm ước một ngày nào đó, người dân Việt Nam có thể sở hữu một hệ thống giao thông hiện đại như Nhật bản, Pháp quốc hay các nước Tây phương. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ chấp nhận liều lĩnh, chấp nhận rủi ro khi bỏ ra 56 tỉ đôla để rồi “kéo cày trả nợ” cũng như những tác động tiêu cực về kinh tế. Môt chút liều lĩnh đôi khi cũng có lợi, tuy nhiên nó phải có cơ sở. Nhật Bản đă chấp nhận vay vốn để xây dựng hệ thống TGV, tuy nhiên, ở thời điểm đó nó chỉ chiếm hơn 2% GDPcủa đất nước này. Trong khi ở thời điểm hiện tại, chúng ta lại phải bỏ ra hơn ½ GDP, một sự chênh lệch không thể so sánh được. Mặt khác, khi có kế hoạch xây dựng TGV, các quốc gia khác đă hoàn thiện “cầu nối”để tạo nên sự tuần hoàn cần thiết, trong khi Việt Nam vẫn chưa hề tính đến phương án này. Một quyết định gây “chấn động” cho những người hiểu rõ nội tình Đất Nước.
Xuân Thu.